Phù là hiện tượng ứ nước trong các tổ chức dưới da hoặc ở các tạng của cơ thể. Phù có thể là dấu hiệu của nhiều bệnh nguy hiểm.
Thông thường phù được nhận thấy ở bàn tay, cánh tay, bàn chân, mắt cá chân và chân.
Vì sao cơ thể bị phù?
Phù xảy ra khi mạch máu nhỏ trong cơ thể bị rò rỉ dịch (mao mạch). Điều này có thể gây rò rỉ từ các mao mạch hư hỏng, tăng áp lực bên trong hoặc từ các mức giảm của các albumin huyết thanh – một loại protein trong máu.
Khi cơ quan cơ thể đang bị rò rỉ mao mạch, thận bắt đầu giữ lại nhiều natri và nước hơn bình thường để đền bù cho các chất lỏng bị mất từ các mạch máu. Điều này làm tăng lượng nước lưu thông trong cơ thể, gây ra các mao mạch bị rò rỉ nhiều hơn nữa. Các dịch từ rò rỉ mao mạch vào các mô xung quanh, gây ra các mô bị sưng lên.
Có 2 dạng là phù mềm và phù cứng:
– Phù cứng xảy ra thường là bệnh liên quan đến tuyến giáp.
– Phù mềm hay còn gọi là phù dịch, nó xuất phát từ hiện tượng dịch từ trong lòng mạch thoát ra ngoài khoảng bào. So với phù cứng thì phù mềm dễ phát hiện hơn. Khi bạn dùng tay ấn vào da trên nền cứng khi rút tay ra thì thấy chỗ dấu tay ấn bị lõm xuống.
Dấu hiệu nhận biết cơ thể bị phù
Phát hiện phù không khó. Người bệnh có cảm giác:
Nặng mặt, nặng chân. Nơi bị phù sưng to, căng mọng, làm mất đi các nếp nhăn, mắt cá, đầu xương bị phẳng lỳ.
Phù bị giữ nước nên cân nặng có thể tăng hằng ngày từ 1 đến 2 kg.
Da sưng tấy, bị kéo căng và trở nên bóng.
Da vẫn còn lõm như đồng tiền sau khi được ấn trong vài giây và thả ra.
Các tĩnh mạch ở tay và cổ nổi gồ lên.
Đau đầu, đau bụng.
Tần số mạch và huyết áp cao hơn.
Bất thường thị giác.
Bệnh lý và các yếu tố có thể gây phù
Suy tim sung huyết: Khi một hoặc cả hai buồng tâm thấp mất khả năng bơm máu hiệu quả, như xảy ra trong suy tim sung huyết, máu có thể giữ lại trong chân, mắt cá chân và bàn chân, gây phù nề.
Xơ gan: Bệnh này gây ra sẹo trong gan, cản trở chức năng gan, gây ra những thay đổi về hormone và hóa chất điều tiết chất dịch trong cơ thể cũng như làm tăng áp suất trong mạch máu lớn (cổng tĩnh mạch), trong đó mang máu từ ruột, lá lách và tuyến tụy vào gan. Những vấn đề này có thể dẫn đến chất lỏng tích tụ ở chân và ổ bụng (cổ trướng).
Bệnh thận: Khi bị bệnh thận, thận có thể không loại bỏ đủ chất lỏng và natri trong máu. Nước dư thừa và natri tăng áp lực trong mạch máu gây phù. Tổn thương cho các mạch máu nhỏ trong thận (tiểu cầu) có bộ lọc chất thải và nước dư thừa từ máu có thể dẫn đến hội chứng thận hư. Một kết quả của hội chứng thận hư là mức thấp của protein (albumin) trong máu, có thể dẫn đến sự tích tụ dịch và phù nề.
Suy các tĩnh mạch: Suy tĩnh mạch mạn tính là một tình trạng trong đó các tĩnh mạch và van trong các tĩnh mạch ở chân bị suy yếu hoặc bị hư hỏng và không thể bơm đủ máu trở lại tim. Máu còn lại tăng áp lực trong các tĩnh mạch, gây phù.
Phù do thiếu vitamin B1: Phù hai chân, ấn lõm, thường phù rõ vào buổi chiều, hai chân thấy tê bì như kiến bò, hay bị chuột rút, phản xạ gân gối mất. Thường do ăn uống thiếu chất lâu dài. Điều trị bằng vitamin B1 phù mất đi rõ rệt. Nếu mẹ đang nuôi con thì con cũng bị thiếu vitamin B1, hay khóc về đêm, gọi là khóc “dạ đề”.
Phù do thai nghén: Gặp ở người có thai, có hoặc không có protein niệu. Cần phải khám thai định kỳ để xác định.
Do suy dinh dưỡng: Phù toàn thân hoặc hai chi dưới, phù trắng, mềm, ấn lõm, mức độ phù buổi sáng và chiều như nhau. Nước tiểu không có protein. Thường do thiếu ăn hoặc đang mắc các bệnh mạn tính như: rối loạn tiêu hóa lâu ngày, lao, ung thư, các bệnh tê liệt, bị các bệnh mạn tính nằm lâu.
Lời khuyên của bác sĩ
Nếu không chữa trị, tình trạng phù có thể khiến người bệnh cảm thấy mệt mỏi, sưng đau; khó khăn đi bộ; căng da, có thể khiến ngứa và khó chịu..
Khi bị phù, người bệnh cần:
Đến cơ sở y tế để khám, làm các xét nghiệm, chẩn đoán bệnh và có phương pháp điều trị theo từng nguyên nhân cụ thể.
Thực hiện các bài tập theo hướng dẫn của bác sĩ.
Tăng cường massage.
Giảm lượng muối trong các bữa ăn hàng ngày.
Tránh tắm nước nóng, tắm nước nóng bồn tắm nóng và phòng tắm hơi.
Mang tất y khoa.
Duy trì cân nặng.
Tìm hiểu các bài viết khác Tại đây
SKĐS